Thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi

`1. Các quy định của pháp luật về thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi

+ Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Bộ luật Dân sự) quy định:“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651, 652 của Bộ luật này”.

+ Khoản 3 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật Hôn nhân và gia đình) quy định:“Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật Nuôi con nuôi, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan”.

+ Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 (Luật Nuôi con nuôi) quy định cụ thể về hệ quả của việc nuôi con nuôi, theo đó, kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

+ Theo Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình thì: cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật Nuôi con nuôi.

+ Căn cứ vào các quy định tại các Điều 104, 106, 113, 114 Luật Hôn nhân và gia đình, thì con nuôi không có mối quan hệ về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng nhau đối với những người thân thích thuộc gia đình của bố, mẹ nuôi như, bố mẹ của cha, mẹ nuôi, anh, chị, em ruột của cha mẹ nuôi, chú, bác, cô dì, cậu ruột của cha mẹ nuôi. Hay nói cách khác, người con nuôi không thể là cháu ruột của những người này; do vậy, người con nuôi không thể là người thừa kế của những người như trên.

Tuy nhiên, người làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ với gia đình cha mẹ đẻ, cho nên họ là người thừa kế theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 Bộ luật Dân sự của những người thân thích (họ là người thừa kế thế vị của những người thân thích trong gia đình của họ, mặc dù họ là làm con nuôi của người khác).

Từ quy định trên, có thể thấy thực trạng về quan hệ thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi có sự đan xen cả huyết thống lẫn nuôi dưỡng giữa các đời, cụ thể như sau:

Có thể bạn thích:  Giao đất, cho thuê đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo Luật Đất đai (sửa đổi)

Thứ nhất, nếu quan hệ giữa đời thứ nhất với đời thứ hai là nuôi dưỡng nhưng quan hệ giữa đời thứ hai với đời thứ ba lại là huyết thống, tức là A nhận nuôi B và B sinh ra C, thì trường hợp này được thừa kế thế vị.

Thứ hai, nếu quan hệ giữa đời thứ nhất với đời thứ hai là huyết thống nhưng quan hệ giữa đời thứ hai với đời thứ ba lại là nuôi dưỡng, tức là A sinh ra B và B nhận nuôi C, thì trường hợp này không đương nhiên được thừa kế thế vị.

2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi

Trong vụ án yêu cầu công nhận quyền thừa kế và tranh chấp di sản thừa kế của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Hà Nội giữa nguyên đơn là Thiều Văn C1 và bị đơn là Đỗ Quang V.

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Đỗ Thị T5 (chết năm 2009) không lấy chồng, nhưng có một người con nuôi là chị Đỗ Đức Phương C3 (chết năm 2007). Chị C3 và bà T5 đều không để lại di chúc.

Di sản bà T5 để lại là thửa đất số 203, Tờ bản đồ số 12, diện tích 127,3m2 tại khối 7, phường L, thành phố H.

Chị C3 có chồng là anh Thiều Văn C1 và có 02 con chung là cháu Thiều Thụy Thùy T7, và cháu Thiều Đỗ Gia H4.

Năm 2011, anh C1 về sửa lại nhà và làm thủ tục khai nhận thừa kế cho hai cháu T7 và cháu H4 đối với di sản của bà T5 để lại, nhưng ông Đỗ Quang V ngăn cản không cho sửa và khai nhận thừa kế cho hai cháu.

Vì vậy, anh C1 khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế tài sản của bà T5 và công nhận hai cháu T7 và H4 được hưởng toàn bộ di sản do bà T5 để lại.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm nhận định: cháu T7 và cháu H4 được quyền thừa kế đối với di sản bà T5 để lại gồm: Thửa đất số 203, diện tích 127,3m2 tại khối 7, phường L, thành phố H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC188680 ngày 01/8/2005 mang tên Đỗ Thị T5; nhà và các tài sản khác gắn liền với đất.

Tòa án phúc thẩm nhận định: bà T5 nhận chị C3 làm con nuôi nhưng không thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, phía gia đình bị đơn thừa nhận chị C3 được bà T5 nhận nuôi năm 1979. Quá trình nuôi dưỡng, gia đình có hỗ trợ kinh phí để bà T5 chăm sóc, nuôi dưỡng chị C3 đến tuổi trưởng thành. Khi chị C3 đi học nghề tại thành phố Hồ Chí Minh, bà T5 bỏ tiền nuôi ăn học và có sự hỗ trợ kinh phí từ phía gia đình bị đơn (BL06, 65, 186). Mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế. Do đó, theo điểm a Điều 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì trường hợp bà T5 nhận nuôi chị C3 là con nuôi thực tế. Năm 2002, chị C3 kết hôn với anh C1 và vợ chồng có hai con chung là cháu T7 và cháu H4. Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) đều không để lại di chúc, nên hai cháu T7 và H4 được thừa kế thế vị di sản của bà T5.

Có thể bạn thích:  Nghiên cứu về giới hạn độ tuổi Công chứng viên

Có thể thấy, trong trường hợp này chị C3 được xác định là con nuôi của bà T5 nên các con T7 và H4 được thế vị chị C3 (chết trước bà T5) hưởng phần di sản của bà T5 là hoàn toàn hợp lý.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *